Marketing online

Marketing Online

Dành cho những ai yêu thích ngôn ngữ báo phát thanh

Bài viết dành cho những ai yêu thích ngôn ngữ báo phát thanh

          f:id:thietkewebsitevungtau:20170302133350p:plain

Xem thêm:

=> Tìm hiểu về chơi chữ trong các tác phẩm báo chí

=> Hiểu bản chất của tên gọi Content marketing

=> 

I. CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA NGÔN NGỮ PHÁT THANH

Ngôn ngữ báo phát thanh, lẽ đương nhiên, mang trong mình tất cả các tính chất của ngôn ngữ báo chí nói chung. Song, bên cạnh đó, nó còn có một số nét riêng biệt sau đây:

1. Ngôn ngữ phát thanh là ngôn ngữ nói ( ngôn ngữ âm thanh )

Đây là một phẩm chất vô cùng quý giá, vì ngôn ngữ nói hướng tới thính giác - một hệ thống tri giác hoàn hảo nhất của con người. Theo các chuyên gia thì dung lượng thông tin mà con người chuyển tải hay tiếp nhận được nhờ thính giác và ngôn ngữ nói lớn gấp ba lần so với lượng thông tin mà anh ta chuyển tải hay tiếp nhận bằng con đường thị giác - đọc hoặc viết. Nguyên do là bởi ngôn ngữ nói, ngoài thông tin nằm trong ý nghĩa của ngôn từ, còn mang trong mình một thông tin bổ trợ đáng kể khác được thể hiện qua chất giọng, qua ngữ điệu, qua âm lượng. Nói là " bổ trợ " nhưng thực ra thông tin này có vai trò quan trọng không kém thông tin chính. Và trong không ít trường hợp, chính nó là nhân tố quyết định mức độ hiệu quả của việc tiếp nhận thông tin. Một bài viết trung bình nhưng do một người có chất giọng tốt và biết sử dụng ngữ điệu hợp lý, linh hoạt truyền đạt sẽ có sức tác động lớn hơn nhiều so với một bài viết hay nhưng do một người có chất giọng tồi và thường xuyên xử lý sai ngữ điệu trình bày. Không phải ngẫu nhiên mà nhà nghiên cứu ngôn ngữ phát thanh nổi tiếng người Mỹ W. Hofman đã nhận định: " Nội dung của từ ngữ làm người ta xúc động tới mức nào, thì âm thanh của tiếng nói cũng có thể làm người ta rung cảm tới chừng ấy "1.

2. Ngôn ngữ phát thanh thiên về hình thức độc thoại tuy có sử dụng nhiều phương tiện của đối thoại

Có lẽ trước hết chúng ta nên tìm hiểu về hai khái niệm " độc thoại " và " đối thoại ".
" Độc thoại " là sản phẩm ngôn ngữ của một cá nhân trong hoàn cảnh giao tiếp chỉ có anh ta là người nói. Theo nhà ngôn ngữ học L. V. Serba ( Nga ) " đây là hệ thống có tổ chức cao của các ý tưởng được biểu đạt qua ngôn từ, nhằm tác động có chủ đích tới những người xung quanh "2.

Còn đối thoại là một chuỗi những lời hồi đáp với tư cách là những phản ứng qua lại giữa ít nhất hai cá thể nào đó.

Nhưng ở đây cần bổ sung thêm ngay rằng những lời hồi đáp có dung lượng quá lớn ( gồm nhiều câu và thể hiện trọn vẹn một chủ đề nào đó ) cũng được xem là độc thoại. Điều này có nghĩa là độc thoại có thể tồn tại ngay trong đối thoại.

Với cách hiểu như trên của ngôn ngữ học về " độc thoại " và " đối thoại ", chúng ta thấy ngôn ngữ phát thanh có khuynh hướng độc thoại rất rõ nét. Phần lớn các thể loại của báo phát thanh như bình luận phóng sự, phản ánh, câu chuyện phóng viên, điểm tin, tiểu phẩm,.. đều mang tính chất độc thoại. Rồi ngay cả một số ít thể loại vốn được coi là thuộc kiểu đối thoại như phỏng vấn, đàm thoại bàn tròn thực ra cũng không thuần chất chỉ là đối thoại. Bởi vì trong chúng có không ít những lời hồi đáp mang tính chất độc thoại.

Bên cạnh đó, chúng ta cũng không thể phủ nhận là độc thoại trên báo phát thanh ngày càng dùng nhiều hơn các phương tiện của đối thoại.. Chẳng hạn, trước khi bắt đầu độc thoại về một vấn đề, sự kiện hay hiện tượng nào đó, người ta có thể xây dựng một tình huống đối thoại giữa hai người nhằm tạo sự sinh động để thu hút sự chú ý. Rồi trong quá trình độc thoại, người ta thường xuyên sử dụng các từ ngữ, cách diễn đạt,... đặc trưng cho ngôn ngữ đối thoại để người nghe thấy gần gũi, có cảm giác là nhà báo đang trò chuyện trực tiếp với mình, và do vậy, hiệu quả tiếp nhận thông tin sẽ cao hơn. Tuy nhiên, việc sử dụng các phương tiện của đối thoại chỉ là thủ pháp tăng cường giá trị biểu cảm cho ngôn từ chứ không thể làm thay đổi bản chất của độc thoại, khiến nó trở thành đối thoại.

                  f:id:thietkewebsitevungtau:20170302133453p:plain

3. Ngôn ngữ phát thanh luôn mang dấu ấn cá nhân rõ nét của người nói hay người đọc

Mức độ của nó tuỳ thuộc vào từng thể loại, từng tình huống giao tiếp cụ thể. Khi người truyền tin là phát thanh viên, dấu ấn cá nhân có vẻ như bị hạn chế tới mức thấp nhất, song người ta vẫn nhận thấy thái độ cảm xúc của anh ta đối với bài viết thông qua giọng điệu. Còn nếu như người truyền tin là tác giả bài viết ( phóng viên, biên tập viên ) thì dấu ấn cá nhân rõ nét hơn nhiều. Khảo cứu cho thấy, lời nói của những người chưa từng qua các khoá đầo tạo đặc biệt về đọc, nói, luyện giọng ( tức là họ không phải là phát thanh viên hay nhà hùng biện chuyên nghiệp ) thường là công cụ biểu đạt hết sức tinh tế trạng thái tâm lý đích thực cũng như nhiều đặc điểm của người phát ngôn. Có lẽ đây là lý do khiến cho nhiều đài phát thanh trên thế giới thường xuyên yêu cầu các chủ thể sáng tạo trình bày ngay chính tác phẩm của họ trước micrô. Bởi điều này tạo điều kiện cho thính giả giải toả được nhu cầu: khám phá một cá thể mới với những nét riêng tư trong đời sống nội tâm của anh ta. Đây là một nhu cầu hết sức tự nhiên và nhân bản, nó luôn mang tính cấp thiết trong bất cứ thời đại nào, đúng như Hecxen viết: " Con người luôn muốn xâm nhập vào cá thể khác, muốn chạm tới từng thớ mạch li ti của trái tim người khác để lắng nghe nhịp đập của nó. Anh ta so sánh, kiểm chứng, tìm kiếm sự khẳng định, sự đồng cảm, sự biện hộ "3.

4. Ngôn ngữ phát thanh không có khả năng được minh hoạ bằng hình ảnh

Đây là mặt khác biệt, đồng thời cũng là mặt hạn chế của nó so với truyền hình và báo in. Tuy nhiên, ngôn ngữ phát thanh đã tìm thấy sự minh hoạ cho mình ở các nguồn khác cũng nằm trong chính thế giới của âm thanh. Đó là các băng ghi âm tư liệu, là tiếng động, là âm nhạc, và đặc biệt là các đặc tính vật chất và hình tượng của ngôn từ cất thành tiếng. Có thể nói, nhà báo phát thanh phải vẽ nên hình ảnh bằng âm thanh. Thực tế cho thấy là các tác phẩm báo phát thanh hay, có sức tác động lớn bao giờ cũng có ngôn ngữ hết sức sống động, giàu hình ảnh, có tính trực quan cao, chắp cánh cho sự tưởng tượng của người nghe, khiến cho họ có cảm giác đang được chứng kiến sự việc xảy ra ngay trước mặt mình; bên cạnh đó, nó còn phải được trình bày bởi một chất giọng tốt, lên bổng xuống trầm, tăng giảm tốc độ âm thanh một cách hợp lý.

Hiện nay, đang có nhiều ý kiến cho rằng hạn chế về phương diện hình ảnh của báo phát thanh rất có thể lại trở thành ưu thế của nó, vấn đề là sử dụng ngôn ngữ âm thanh như thế nào. Quả vậy, nếu biết sử dụng ngôn từ khéo léo và linh hoạt, nhà báo phát thanh có khă năng kích thích tư duy sáng tạo của người nghe, làm cho họ luôn đóng vai trò tích cực trong việc tiếp nhận thông tin. Trong khi đó thì ở truyền hình, do được cung cấp quá đầy đủ thông tin ở cả hai bình diện hình ảnh lẫn ngôn từ, khán giả ít phải tư duy hơn nên dần dần trở nên thụ động mỗi khi tham gia vào kênh giao tiếp này.

5. Ngôn ngữ phát thanh, cũng như ngôn ngữ truyền hình, có tính hình tuyến

Các tín hiệu của ngôn ngữ phát thanh xuất hiện lần lượt, cái này tiếp theo sau cái kia, tạo thành dòng chảy liên tục, theo bề rộng một chiều của thời gian. Và người nghe phải tiếp nhận chúng một cách tức thời cho nên họ không có khả năng quay lại với điều chưa hiểu hoặc đầu tư thời gian để nghiền ngẫm thấu đáo điều đã lĩnh hội được. Chính vì thế, bất cứ sai sót nào ( hay chỉ đơn giản là sự chưa quen tai ) của ngôn ngữ phát thanh cũng khiến cho thính giả phải dừng lại để suy nghĩ, tìm hiểu và có nghĩa là không còn tập trung tư tưởng để nghe các thông tin kế tiếp nữa. Kết quả là cái thì đựoc hiểu mơ hồ, cái thì bị bỏ qua. Và như vậy thì tính hiệu quả của chương trình bị giảm sút đáng kể. Xuất phát từ đây, yêu cầu đặt ra đối với ngôn ngữ phát thanh là: Chính xác, đơn nghĩa, rõ ràng, dễ hiểu.

Nói đến tính hình tuyến của tín hiệu ngôn ngữ, không thể không nói đến quan hệ ngữ đoạn như là hệ quả của nó. Theo quan hệ này, các đơn vị ngôn ngữ khi đứng cạnh nhau sẽ quy định lẫn nhau và cho ta những kết hợp gọi là ngữ đoạn. Trong ngôn ngữ phát thanh, biểu hiện nổi bật nhất của quan hệ ngữ đoạn là việc ngắt đoạn khi nói, khi đọc. Do đó, đây là điều cần được các nhà báo phát thanh đặc biệt quan tâm. Cùng một sản phẩm ngôn từ, nếu được ngắt đoạn ở những chỗ khác nhau, sẽ biểu đạt các ý nghĩa khác nhau. Còn nếu ngắt đoạn sai thì tính chỉnh thể về mặt kết cấu của sản phẩm ngôn từ đó bị phá vỡ, hậu quả là người nghe khó hiểu được đúng nội dung của nó.

II. MỘT SỐ GỢI Ý SỬ DỤNG NGÔN TỪ TRONG PHÁT THANH

1. Nên hạn chế sử dụng từ ngữ địa phương

Những từ ngữ này, ở mức độ nào đó, có khả năng tăng cường tính biểu cảm của ngôn ngữ phát thanh. Thế nhưng, về phạm vi hành chức, chúng chỉ gắn liền với một địa phương nhất định nào đó nên có thể gây khó khăn cho các thính giả là người sống ở các khu vực khác.

2. Tránh lạm dụng việc vay mượn từ ngữ từ tiếng nước ngoài

Nếu nhất thiết phải vay mượn thì chỉ nên chọn những từ ngữ có tính phổ cập rộng rãi, và cố gắng phát âm chuẩn xác theo chuẩn mực đã được thừa nhận. Vì không ít trường hợp cho thấy, những từ ngữ được vay mượn từ tiếng nước ngoài, nếu không thông dụng hoặc được phát âm không đúng, thường trở thành những " hạt sạn " cản trở người nghe tiếp nhận thông tin.

   f:id:thietkewebsitevungtau:20170302133527p:plain

3. Đối với các thuật ngữ chuyên ngành ít gặp hay mới mẻ, nên diễn đạt bằng cách khác sao cho quảng đại quần chúng dễ hiểu
Đừng bao giờ bắt chước cách nói, cách dùng từ của các nhà chuyên môn mà chỉ có người trong giới mới hiểu được.

4. Tránh đưa ra quá nhiều con số trong một văn bản phát thanh

Việc đưa ra các con số nên có liều lượng vừa phải, nếu không người nghe sẽ thấy choáng ngợp, căng thẳng, không còn đủ sự tỉnh táo cũng như hứng thú để nghe và lĩnh hội các thông tin khác; bên cạnh đó, các con số cũng cần được làm tròn cho dễ nhớ.

5. Cố gắng đọc hoặc nói trước micrô thật diễn cảm ( tất nhiên là ở mức độ mà khả năng cho phép )

Qua giọng điệu phải thật sự " thả hồn " của mình vào nội dung tác phẩm thì nó mới có sức tác động lớn đối với người nghe. Còn kiểu nói hay đọc với âm điệu đều đều, đơn điệu, tẻ nhạt dễ gây cảm giác là chính người chuyển tải thông tin cũng " vô cảm " trước những gì mình đang trình bày. Và điều đó dễ dàng giết chết mọi cảm xúc cũng như sự quan tâm của người nghe.

6. Cần tránh những câu văn có thể tạo nên nhiều cách hiểu

Vì sự " mơ hồ " về nghĩa như vậy của chúng dễ làm cho người nghe bị phân tán tư tưởng hoặc hiểu sai, hiểu lệch chủ ý của tác giả.
Dưới đây là hai ví dụ về câu mơ hồ về nghĩa:
a, Điều đó thể hiện thái độ quyết tâm cao chống tệ nạn buôn lậu của Uỷ ban Nhân dân ( UBND ).
b, Chống lây lan và sống chung với AIDS.
Các câu trên ít nhất có hai cách hiểu:
a, Thái độ quyết tâm cao của UBND.
- Tệ nạn buôn lậu của UBND.
b, Chống lây lan và chống sống chung với AIDS.
- Chống lây lan và nên sống chung với AIDS.

7. Cần hết sức kiệm lời

Trong báo phát thanh, người nghe, do phải lĩnh hội thông tin một cách tức thời, chỉ có thể tập trung sự chú ý của mình trong một khoảng thời gian ngắn. Vì lẽ đó, trong số các cách diễn đạt có thể với cùng một nội dung, nên chọn cách diễn đạt ngắn gọn nhất mà vẫn chuyển tải được đầy đủ lượng thông tin cần thiết.

8. Nên chú ý khai thác các biện pháp tu từ ngữ âm để ngôn ngữ phát thanh sinh động, hấp dẫn và có ý nghĩa sâu sắc hơn

Nhà báo phát thanh có thể vận dụng những biện pháp cơ bản dưới đây:
a, Biện pháp hoà phối thanh điệu: Là biện pháp lựa chọn và kết hợp các yếu tố âm thanh sao cho hài hoà để các câu văn trở nên dễ nghe, dễ đọc hơn.
Trong văn xuôi, để tạo sự hài hoà về thanh điệu, người ta thường sử dụng sự luân phiên thanh điệu thuộc hai nhóm bằng ( gồm thanh huyền và thanh ngang ) và trắc ( gồm thanh hỏi, thanh ngã, thanh sắc và thanh nặng ) ở âm tiết của các câu hợc thành phần câu. Ví dụ:
"... Chắc là rượu bổ ( T ). Có rẻ cũng phải ba bốn đồng ( B ). Ý tất người ta có định lấy con mình ( B ) thì người ta mới chịu bỏ tiền mua rượu biếu chứ ( T ). Vả lại, bây giờ hạng thông, ký, phán lấy vợ nhà quê kể cũng thường ( B ). ( Nam Cao ).
" Được đi dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ chín ( T ), ông xúc động nói: " Đảng đã sinh ra tôi lần thứ hai ( B ) ". ( Đài TNVN, 20 / 4 / 2001 ).
" 15 năm qua ( B ), văn hoá văn nghệ đã đạt được nhiều thành tựu ( T ) trong các lĩnh vực, nghiên cứu, sáng tác, phê bình ( B ) ". ( Đài TNVN ).
Biện pháp hoà phối thanh điệu có tính phổ cập hết sức rộng rãi. Hầu hết các biện pháp tu từ ngữ âm khác, khi được vận dụng, đều phải ở mức độ này hay mức độ khác, kết hợp với nó.
b, Biện pháp lặp số lượng âm tiết: Là biện pháp sử dụng các câu văn có số lượng âm tiết như nhau ở cạnh nhau để tạo nên âm hưởng của thơ ca. Ví dụ:
" Núi rừng vẫn ngút ngàn, rậm rạp. Đường đi tắt nhỏ teo hoang vu ". ( Hồ Phương ).
" Trận lụt chưa rút. Nước vẫn mênh mông ". ( Nguyễn Sáng ).
c, Biện pháp lặp vần: Là biện pháp sử dụng các âm tiết có khuôn vần giống nhau nhằm tạo nhạc tính cho câu văn. Ví dụ:
" Tre trông thanh cao giản dị, chí khí như người. Nhà thơ đã có lần ca ngợi: Bóng tre trùm mát rượi ". ( Thép Mới ).
"... Dân làng thi nhau sắm thuyền bè đi tìm vàng trên khắp các lạch sông nguồn suối. Ngót chục năm trôi qua, những người đàn ông cứ biền biệt ra đi. Vàng đâu chẳng thấy, cái mà họ đem về chỉ là những con nghiện, những giọt nước mắt tàn tạ và... cả một gánh nợ khó bề trả nổi ( ! ). Người ta bảo: Đó là một canh bạc với ông Giời ". ( Đỗ Doãn Hoàng ).
d, Biện pháp tạo nhịp điệu: Là biện pháp dùng những hình thức cân đối, nhịp nhàng của lời văn nhằm tạo nên một âm hưởng lôi cuốn, dễ đi vào lòng người.
Dưới đây là một số trường hợp diển hình về nhịp điệu:
- Dùng những từ phản nghĩa đối nhau, ví dụ:
" Trong Việt Minh, đồng bào ta bắt tay nhau chặt chẽ, không phân biệt gái, trai, già, trẻ, lương giáo, giàu, nghèo. ( Hồ Chí Minh ).
- Dùng những cụm từ, những vế, những đoạn câu đối nhau, ví dụ:
" Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp, cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy, gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân cứu nước ". ( Hồ Chí Minh ).
- Vận dụng sự cân đối, nhịp nhàng, khúc chiết của các bộ phận trong một câu ghép ( thường được gọi là trường cú ), ví dụ:
" Nay, vì tình hình quốc tế, vì muốn tỏ lòng tin vào nước Pháp mới, và sự thành thực của những người đại diện cho Chính phủ Pháp, và tin vào sự hoàn toàn độc lập của tương lai nước nhà, tôi cùng Chính phủ ta ký bản hiệp định sơ bộ với Chính phủ Pháp.( Hồ Chí Minh ).

Trong câu văn trên, về mặt tiết tấu, ngữ điệu có sự chia tách rõ rệt giữa hai bộ phận: bộ phận thức nhất từ đầu đến từ " nhà ", bộ phận thứ hai từ từ " tôi " cho đến hết.
Giọng nói được nâng cao dần ở bộ phận thứ nhất của câu, tạo ra một sự căng thẳng chờ đợi. Sau khi đã lên cao đến đỉnh điểm thì đánh dấu bằng một nhịp ngừng ngắt, tiếp theo đó hạ thấp rõ rệt ở bộ phận thứ hai, làm dịu đi sự căng thẳng chờ đợi.

d, Biện pháp tạo âm hưởng chung: Là biện pháp phối hợp âm thanh, nhịp điệu của câu văn không phải chỉ cốt tạo ra một sự cân đối nhịp nhàng, êm ái, du dương, mà cao hơn thế, phải tạo ra được một âm hưởng hoà quyện với nội dung hình tượng của cả đoạn văn, thậm chí toàn văn bản. Ví dụ: " Nước Việt Nam xanh muôn ngàn cây lá khác nhau.

Cây nào cũng đẹp, cây nào cũng quý, nhưng thân thuộc nhất vẫn là tre nứa. Tre Đồng Nai, nứa Việt bắc, tre ngút ngàn Điện Biên, luỹ tre thân mật làng tôi. Đâu đâu cũng có nứa tre làm bạn.
... Gậy tre, chông tre chống lại sắt thép quân thù. Tre xung phong vào xe tăng đại bác. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre hy sinh để bảo vệ con người. Tre, anh hùng lao động. Tre, anh hùng chiến đấu! ( Thép Mới ).

Trong các đoạn văn trên, sự luân phiên thanh điệu bằng, trắc, sự thay đổi nhịp điệu mau thưa, sự phối hợp câu dài với câu ngắn... đã tạo nên cái chất thơ, chất nhạc hoàn toàn hoà quyện với nội dung trữ tình, với cảm xúc say sưa, mạnh mẽ của tác giả đối với đất nước thông qua hình tượng cây tre.4

Thực tế cho thấy, các biện pháp tu từ ngữ âm nói trên hầu như không bao giờ xuất hiện đơn lẻ: Mỗi biện pháp thường chỉ xuất hiện đồng thời với các biện pháp khác. Chính vì vậy, chúng thường mang sức mạnh được cộng hưởng làm cho câu văn vừa trở nên gợi cảm về mặt âm thanh, vừa được bổ sung thêm những khía cạnh nhất định về mặt ý nghĩa.

Chú thích
1. W. Hoffman, Nghệ thuật hùng biện trên sóng phát thanh, L., 1965, tr. 69 ( bằng tiếng Nga ).
2. L. V. Serba, Tiếng Nga văn học hiện đại, M., 1978, tr. 9 ( bằng tiếng Nga ).
3. A. I. Herxen, Quá khứ và suy tưởng, trong cuốn: " Các nhà văn Nga nói về lao động văn chương", T. 2, L., 1955, tr. 81 ( bằng tiếng Nga ).
3. Đinh Trọng Lạc, 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, NXB. Giáo dục, H., 1995, tr. 230.

( Bài in trong: Báo phát thanh, NXB. Văn hoá - Thông tin, H., 2002 )

========***========***=========****=========****==========

bột sắn dây nguyên chất | tác dụng của bột sắn dây | cách sử dụng bột sắn dây